Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Lịch sử xăm mình - Hình xăm biết nói


day phun xam


Với giang hồ thứ thiệt, hình xăm là dấu hiệu để nhận biết xuất xứ và đẳng cấp. Giang hồ gốc miền Nam, có xăm hình đại bàng thì cái đầu con chim cũng dứt khoát trông nghiêng. Ngược lại, đại bàng nhìn thẳng hoặc tòa lâu đài, giới tội phạm nhìn là biết ngay một gã dân chơi baker (giang hồ gốc Bắc).
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” của Sử thần Ngô Sĩ Liên chép: “Bấy giờ (thời Hùng Vương – NV) dân ở rừng núi thấy cá tôm thường tụ họp ở sông ngòi, rủ nhau bắt cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại. Tâu với vua, vua nói rằng: “Giống người Man ở núi có khác loài thủy tộc, loài ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên có tai nạn ấy”. Vua bèn sai mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy giống thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa. Tục người Bách Việt vẽ mình bắt đầu từ đấy”.

Ứng Thiệu, nhà chú giải sách Sử ký của Trung Quốc vào thế kỷ thứ II cũng giải thích tục vẽ mình của người Việt rằng: “Vì ở trong nước nên người ta cạo tóc xăm mình cho giống giao long nên không bị giao long hại nữa”.

Như vậy, tục xăm mình là một hiển chứng của tín ngưỡng dân gian. Đối với người Việt, những hoa văn được xăm đều liên quan đến đặc trưng văn minh lúa nước. Không ít nhà sử học cho rằng chính vì tục xăm mình nên quốc hiệu đầu tiên của nước ta mới được gọi là Văn Lang.

Nhiều dân tộc khác cũng có lệ xăm mình thích chữ. Từ đời Tần, ở Trung Quốc, những tội nhân bị phát vãng lưu đày đều bị thích lên má hoặc lên trán mấy chữ “tội”, “phạm” hoặc “tù”. Tại châu Âu thời Trung cổ, phụ nữ ngoại tình thường bị giới quý tộc bắt buộc xăm một bông hoa huệ lên vai trái, xem đó như một dấu ấn của sự ô nhục. Tại Nhật Bản, những hình xăm kín khắp thân mình cùng với những ngón tay cụt đốt là dấu hiệu đặc trưng của giới Yakuza, những tên tội phạm chuyên nghiệp.

Mỗi hình xăm hay vết thích đều mang một ý nghĩa nhất định biểu thị ý chí hoặc ước nguyện của người mang nó. Hào khí Đông A luôn được nhắc đến với dòng chữ “Sát Thát” khắc trên vai những chiến binh thời Trần. Ở miền Trung Việt Nam, cách đây chỉ vài ba thập kỷ, dấu thập thích trên trán những bé trai vẫn phổ biến như một dấu hiệu chỉ những đứa trẻ khó nuôi, thuộc loại “con cầu tự”. Còn nếu hình xăm trên vai là một chiếc quan tài với ba ngọn nến, chắc chắn người mang nó phải là một anh lính Việt Nam Cộng hòa bị bắt quân dịch, luôn nhìn tương lai với đôi mắt mịt mờ, vô định và nơm nớp lo mạng sống không biết sẽ bị tước đoạt lúc nào.

Là một thực tại folklore (văn hóa dân gian), những hình xăm biến mất dần khi ý thức xã hội tiến dần về phía văn minh. Ngày nay, hình xăm đã trở thành một thứ dấu vết chứng tỏ sự non kém, thiếu văn hóa, may ra chỉ còn những kẻ học đòi hay giới giang hồ là vẫn còn duy trì và ưa chuộng. Lẽ tất nhiên, có rất nhiều người xăm mình nhưng vẫn không liên quan gì đến giới giang hồ, nhưng đã là người của giới này thì hình xăm hầu như vẫn là một thứ không thể thiếu.

Đám đầu bò đầu bướu quen càn quấy thời nào cũng khoái hai thứ: hoặc đầu cọp nhe nanh hoặc đại bàng dang cánh. Hai hình xăm này ám chỉ một sự phô trương sức mạnh hoặc khao khát trở thành chúa tể trong một thế giới đầy rẫy sự bon chen, lừa lọc. Mấy thằng oắt con chán đời mới tập tễnh “dân chơi” thì khoái xăm trái tim bị mũi tên xuyên thủng – chỉ một mối thất tình, hay một cánh buồm lẻ loi, ngầm ý oán cuộc đời vô định. Dưới những hình xăm này, chúng thường thích kèm một vài câu khẩu hiệu sặc mùi rẻ tiền như “hận đời đen bạc”, “đời là bể khổ, tình là dây oan” v.v... Dân “ken” vài thập niên trước tỏ ra lém lỉnh hơn, thường trổ kèm dưới hình cái ống chích dòng chữ “tôi yêu cô y tá”! Quái dị hơn, cả chữ lẫn hình đều được xăm ở nơi “không vén quần là không thể thấy”!

Với giang hồ thứ thiệt, nhất là với những kẻ từng vào tù ra khám nhiều lần, hình xăm đích thị là một thứ dấu hiệu để nhận biết xuất xứ và đẳng cấp. Chiếc tàu có ba cánh buồm là của những kẻ từng ngồi trại Đồng Phú, con hổ vờn là “khách” của trại Bố Lá, cái mỏ neo là kẻ đã từng đậu ở “bến” Chí Hòa, con Kỳ Lân là kẻ từng dạo gót ở trại Đồng Hòa, K6 – Tống Lê Chân... Giang hồ gốc miền Nam, có xăm hình đại bàng thì cái đầu con chim cũng dứt khoát trông nghiêng. Ngược lại, đại bàng nhìn thẳng hoặc tòa lâu đài, giới tội phạm nhìn là biết ngay một gã dân chơi baker (giang hồ gốc Bắc). Đám tù “con rạ” (đi tù nhiều lần) chẳng dại gì phạm vào những điều cỏn con nhưng tối kị ấy, bởi chẳng tên nào muốn vô tù còn bị lãnh đòn hội chợ vì “tội” tự xếp “lộn chuồng”!

Cũng xuất phát từ những trại tù, các loại hình xăm mang ý nghĩa phân phong đẳng cấp đã xuất hiện. Tù tứ cố vô thân, bị xếp vào loại “âm binh mất ma”, xuất thân từ cô nhi viện nên chẳng khi nào có giỏ thăm nuôi được xăm hoa hồng trên vai trái. Trong giới giang hồ, bông hồng là hình xăm có vị trí thấp nhất, đồng thời nó cũng là vết rạch đau đớn bộc lộ một ý thức luôn thiếu thốn và khao khát tình thương.

Cũng vị trí đó, nhưng những tên phạm tội giết người hay đám sát thủ chuyên đâm thuê chém mướn, hình xăm sẽ là một chữ “binh” viết bằng chữ Hán. Trong bàn cờ tướng, cùng với chữ “tốt”, chữ “binh” cũng được gọi là chốt, nghĩa là loại chỉ biết “thí mạng cùi”, chỉ đâu đánh đó, đã “qua sông” (dấn thân vào giang hồ) là chỉ thẳng tiến, không bao giờ biết (hay được phép) quay trở lại. Hầu hết những kẻ được thích chữ “binh” tính khí đều hung dữ, liều mạng. Loại này được dân giang hồ đánh giá cao về “phẩm chất tội phạm” nhưng lại không được coi trọng về vai vế, trước sau cũng chỉ là những kẻ tay sai.
Đẳng cấp cao nhất trong giang hồ là một thiểu số những kẻ trên bả vai trái có thích chữ “nhẫn” - trên bộ “đao”, dưới bộ “tâm”, diễn nôm là sự mạnh mẽ, nguy hiểm giấu trong tấm lòng. Kẻ mang chữ “nhẫn”, ngoài đời phải là một đàn anh khét tiếng, giàu “chiến tích” bất hảo, đàn em đông đảo và có ân có uy, được giang hồ thừa nhận. Y cũng phải là kẻ vào tù ra khám không chỉ một lần, án dài và nặng, thường là gây án mạng vì “thanh lý môn hộ” (trừng phạt đàn em cùng băng) hoặc gây án do “chiến tranh băng đảng” trong những cuộc chiến tranh giành lãnh địa. Những kẻ trộm cắp hay nghiện ngập không bao giờ được nâng lên đẳng cấp này. Vào tù, đám này vẫn ăn trên ngồi trốc, ăn miếng ngon nhất, nằm chỗ tốt nhất, tối ngủ phải có đàn em đấm lưng, mùa nóng phải có đàn em thay phiên hầu quạt thâu đêm. Mọi nghĩa vụ trong buồng giam, chúng không mó tay làm bất cứ việc gì, chỉ tay năm ngón và sai phái những tên “dưới chiếu”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét